icon icon

Biến đổi khí hậu do tiêu thụ năng lượng lớn tại các tòa nhà

Chiếm tỷ trọng tới 35-40% tổng tiêu thụ năng lượng điện tại một đô thị Việt Nam, nhưng 90% các tòa nhà cao tầng gồm khách sạn, trung tâm thương mại khu công nghiệp… không tích hợp tính hiệu quả sử dụng năng lượng vào các khâu thiết kế cơ bản và vận hành công trình dẫn đến tác động tới biến đổi khí hậu do tiêu thụ năng lượng lớn làm tăng phát thải khí nhà kính.

Theo Hội đồng liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu Liên Hiệp Quốc (IPCC), hiện nay, nhiệt độ trung bình của trái đất tăng 0,8 độ C so với năm 1880 và mực nước biển cao hơn 19 cm so với năm 1901. Trong trường hợp thế giới không thực hiện các biện pháp giảm CO2 – khí nhà kính (KNK) thì đến năm 2100, nhiệt độ trung bình trái đất và mực nước biển sẽ tăng tương ứng là 3,7-4,8 độ C và 63 cm.

Để bảo tồn hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, LHQ kêu gọi các quốc gia trên thế giới chung tay hành động, nhằm đảm bảo nhiệt độ trung bình của trái đất tăng dưới 2 độ C vào năm 2100.

bien doi khi hau do tieu thu nang luong lon tai cac toa nha

Tiêu thụ năng lượng tại các tòa nhà cao tầng đang tác động đến biến đổi khí hậu.

Góp phần đáp ứng mục tiêu này, Chính phủ Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế sẽ giảm 8% KNK so với kịch bản phát triển bình thường (BAU) vào năm 2030 và có thể giảm tới 25%, nếu có sự trợ giúp quốc tế. Còn trong Nghị quyết 55-NQ/TW thì đặt mục tiêu giảm phát thải KNK so với kịch bản BAU ở mức 15% vào năm 2030 và 20% năm 2045 với nhiều giải pháp chủ yếu, nhưng trong đó có giải pháp giảm mức tiêu thụ năng lượng và đẩy mạnh khai thác hiệu quả sử dụng năng lượng trong các lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gia dụng mà đặc biệt là các khách sạn, trung tâm thương mại, văn phòng… theo TS Nguyễn Mạnh Hiến, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, là dễ thực hiện nhất, chi phí ít tốn kém nhất do có nhiều thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Thống kê cho thấy, trong tổng tiêu thụ năng lượng tại một đô thị của Việt Nam, các công trình tòa nhà cao tầng như: Khách sạn, tòa nhà văn phòng, trung tâm thương mại, khu công nghiệp… chiếm tỷ trọng 35-40%. Trong khi đó, số lượng các dự án này đang được đầu tư xây dựng ngày càng nhiều, kéo theo nhu cầu tiêu thụ nguồn năng lượng ngày càng lớn.

Tuy nhiên, trên thực tế, có khoảng 90% các công trình xây dựng tại Việt Nam không tích hợp tính hiệu quả sử dụng năng lượng vào các khâu thiết kế cơ bản và vận hành công trình.

Nguyên do là chưa quan tâm đến giải pháp đầu tư công nghệ trong hệ thống chiếu sáng, thông gió, làm mát, sưởi ấm và chưa sử dụng vật liệu cách nhiệt tiết kiệm năng lượng, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế.

TS Nguyễn Mạnh Hiến cho rằng, đây là một sự lãng phí rất lớn, đặc biệt khi Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng xây dựng cao, với tổng diện tích sàn của các công trình thương mại và nhà ở cao tầng tăng trưởng với tốc độ 6-7% mỗi năm.

bien doi khi hau do tieu thu nang luong lon tai cac toa nha

Tranh biếm họa về tác hại của biến đổi khí hậu.

Để giảm thiểu điện năng tiêu thụ tại các công trình này, TS Hiến cho rằng hiện có hai giải pháp gồm công nghệ và thiết bị.

Về công nghệ có thể lắp đặt cửa sổ các tòa nhà bằng kính năng lượng thấp (Low-e glass) để giảm truyền nhiệt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong tòa nhà, hoặc kính khống chế ánh nắng phản xạ hầu hết bức xạ mặt trời. Loại kính này giúp tiết kiệm được 5% năng lượng. Thứ hai là sử dụng phim cách ly (insulation film) khống chế cho ánh nắng đi qua nhưng phản xạ lại các tia cực tím (UV), ánh sáng chói và hơi nóng. Thay đổi các mức cách nhiệt giúp cho việc sử dụng năng lượng được khống chế trong bất kỳ khí hậu nào. Thứ ba, sử dụng sơn phản xạ nhiệt là một giải pháp đột phá trong ngành sơn giúp cải thiện tính chất cách nhiệt của các tòa nhà theo hướng thân thiện với môi trường.

Loại sơn này có thể phản xạ tới 80% bức xạ mặt trời, vì vậy nếu sơn lên mái hoặc các bề mặt của tòa nhà thì chúng sẽ phản xạ nhiệt mặt trời và giữ mát cho ngôi nhà.

TS Hiến cho biết thêm, sơn phản xạ nhiệt còn làm giảm hiệu ứng “cô lập nhiệt đô thị” – một hiệu ứng làm cho nhiệt độ đô thị cao hơn các vùng xung quanh vào những ngày hè dẫn đến các máy điều hòa không khí phải làm việc nặng nề hơn, tiêu thụ điện năng nhiều hơn, đồng thời gia tăng việc hình thành sương mù góp phần làm chất lượng không khí xấu hơn – cho phép các tòa nhà mát hơn nghĩa là sử dụng máy điều hòa ít hơn và lượng phát thải carbon dioxide thấp hơn.

Về thiết bị, TS Hiến cũng cho hay, các tòa nhà lớn, cao tầng có thể sử dụng máy biến áp hiệu quả năng lượng với lõi thép silic (silicon steel) được sử dụng cho lưới điện phân phối có tác dụng giảm tổn thất trong máy đến 50% so với máy biến áp thông thường. Cùng với đó có thể dùng hệ thống quản lý thông minh tòa nhà (BMS) tiết kiệm 12% lượng điện tiêu thụ.

Chiếu sáng bằng đèn LED T5 tiết kiệm điện năng khoảng 30-40% so với đèn huỳnh quang T8, T10. Dùng cảm biến quang điện để điều khiển hệ thống chiếu sáng trong tòa nhà: Tự động bật, tắt đèn khi có hoặc không có đối tượng chuyển động. Hộp tiết kiệm điện chiếu sáng SUPERDIM tiết kiệm được tới 30% điện năng chiếu sáng. Các hệ thống đóng – mở điều hòa không khí sử dụng thể tích, lưu lượng môi chất biến đổi (VRV/VRF) có thể tiết kiệm từ 30 đến 50% lượng điện năng tiêu thụ so với hệ thống ON/OFF bình thường.

Thu hồi nhiệt đối từ các hệ thống thông gió và điều hòa không khí tiết kiệm 5-20% điện năng. Các hệ thống nhiệt chỉ lưu trữ nước đá, và hệ thống nhiệt lưu trữ nước đá kết hợp làm mát bằng điều hòa không khí tiết kiệm 25-30% điện năng. Đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời, tiết kiệm điện năng 70-85% so với sử dụng điện trở v.v…

Với các giải pháp này, TS Hiến nhận định hiệu quả tiết kiệm năng lượng (TKNL) rất đáng kể.

Tuy nhiên, theo TS Hiến, dù hiệu quả TKNL đáng kể như vậy, chi phí lại không tốn nhưng các giải pháp trên lại chưa áp dụng phổ biến tại Việt Nam do thiếu 3 điểm: thiếu sự tin tưởng vào các giải pháp TKNL, thiếu công nghệ và thiếu vốn. Trong đó, sự thiếu tin tưởng vào các giải pháp TKNL có thể coi là quan trọng nhất bởi ý thức quyết định mọi hoạt động của con người.

Để vượt qua các rào cản này, theo TS Hiến cần có cơ chế, chính sách cho lĩnh vực này để không chỉ TKNL trong các hoạt động sử dụng năng lượng nói chung mà tại cả các công trình cao tầng nói riêng. Đặc biệt có thể hỗ trợ tài chính để các công ty dịch vụ năng lượng (ESCO – Energy Sevice Company) triển khai mạnh mẽ các giải pháp này.

Theo Nguyễn Hưng – Báo PetroTimes

https://petrotimes.vn/bien-doi-khi-hau-do-tieu-thu-nang-luong-lon-tai-cac-toa-nha-569272.html

0/5 (0 Reviews)

Bài viết liên quan
0911.033.777
icons8-exercise-96